May 28, 2023

April 23-Thánh Georges Tử đạo

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH, NĂM A – 23/04/23

BÀI ĐỌC I:  Cv 2, 14. 22-28

“Không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong cõi chết”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: “Hỡi các người Do-thái và tất cả những ai ở Giêrusalem, xin hãy biết điều này và lắng nghe lời tôi! Hỡi những người Israel, hãy nghe những lời này: Đức Giêsu Nadarét là người đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc vĩ đại, những điều kỳ diệu và những phép lạ mà Thiên Chúa đã dùng Người để thực hiện giữa anh em, như chính anh em đã biết. Theo như Thiên Chúa đã định và biết trước, Người đã bị nộp, và anh em đã dùng tay những kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi. Sau khi bẻ gãy xiềng xích tử thần, Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ của cõi chết mà cho Người phục sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong đó. Vì chưng Đavít đã nói về Người rằng: ‘Tôi hằng chiêm ngưỡng Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu tôi, để tôi không nao núng. Vì thế, lòng tôi hân hoan, miệng lưỡi tôi hát mừng, và xác tôi yên nghỉ trong niềm cậy trông: vì Chúa không để linh hồn tôi trong cõi chết, và không để Đấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống và cho tôi đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa'”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11

Đáp: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh. (c. 11a).

Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: “Ngài là chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con” -Đ.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.

3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy sự hư nát.  – Đáp.

4) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời!  – Đáp.

BÀI ĐỌC II:  1 Pr 1, 17-21

“Anh em được cứu độ bằng Máu châu báu của Đức Kitô, Con Chiên tinh tuyền”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, nếu anh em gọi Người là Cha, Đấng không thiên vị ai khi xét đoán mỗi người theo việc họ làm, thì anh em hãy sống trong sự kính sợ suốt thời anh em còn lưu trên đất khách. Anh em biết rằng không phải bằng vàng bạc hay hư nát mà anh em đã được cứu chuộc khỏi nếp sống phù phiếm tổ truyền, nhưng bằng máu châu báu của Đức Kitô, Con Chiên tinh tuyền, không tì ố. Người đã được tiền định trước khi tác thành vũ trụ và được tỏ bày trong thời sau hết vì anh em. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho Người sống lại từ cõi chết, và ban vinh quang cho Người để anh em đặt cả lòng tin và niềm hy vọng nơi Thiên Chúa.  Đó là lời Chúa.

ALLELUIA:  x. Lc 24, 32

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh; xin làm cho tâm hồn chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con. – Alleluia.

PHÚC ÂM:  Lc 24, 13-35

“Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” Một người tên là Clêophas trả lời: “Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay”. Chúa hỏi: “Việc gì thế?” Các ông thưa: “Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp”.

Bấy giờ Người bảo họ: “Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?” Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn”. Người liền vào với các ông.

Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: “Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon”. Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.

Lm Peter Lê Thanh Quang

CÁI ĐÊM TỐI ẤY ĐÁNG SỢ

Ở cuối hành trình về làng Emmaus, hai môn đệ mời Người Khách bộ hành, chính là Chúa Phục Sinh mà cả hai đều không nhận ra: “Xin Ngài ở lại với chúng tôi vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”.

Đi về làng. Ngôi làng vẫn là ngôi làng thân yêu ấy thôi, vẫn cơn gió chiều phe phẩy, vẫn cánh đồng lam bát ngát, vẫn rặng núi đội mây bạc trắng đầu, vẫn con đường lốm đốm màu hoa trên nền xanh lá cỏ quanh co uốn lượn… Tất cả đã nên quen thuộc, đã quá thân thương, đã như tự thuở nào thấm vào huyết quản…

Nhưng chiều muộn hôm nay, đã thật sự đặt chân lên chính ngôi làng của mình, mà trong hồn không phải là niềm vui của biết bao nhiêu lần đã từng ra đi, đã từng trở về.

Lần này là một cuộc tháo chạy. Đó là sự chạy trốn trong hoảng loạn, trong sợ hãi, trong khiếp đảm tận cùng. Về đến quê hương, nơi cách xa Giêrusalem mà hồn vẫn chưa hoàn, phách chưa hồi sinh.

Trở về không mang theo chiến thắng, không mang theo hy vọng, không mang theo bình an cõi lòng, không mang theo niềm rạo rực cho tương lai, lại chỉ thấy ngập đầy ám ảnh về một cuộc ám hại tàn độc của mấy kẻ cầm quyền dành cho người công chính, một Đấng Thánh, Vị đại diện của Thiên Chúa ở trần gian, Đấng chỉ biết làm bạn với người nghèo, người đau khổ, Đấng chỉ giảng dạy giáo lý nước trời, chỉ biết làm phúc cho bao nhiêu kẻ bệnh, tật, đói, chết… được khỏe, được lành, được no, được sống…

Đang khi hai con người nặng trĩu bước chân trên làng quê của chính mình lại chỉ ôm theo bằng ấy thê lương, vỡ mộng, ảm đạm, bàng hoàng và nhói đau trong tâm trạng rệu rã, mất định hướng, thì màn đêm vẫn cứ buông.

Tự bản chất, đêm làm tăng sợ hãi. Trong lòng vốn đã tăm tối, đã vô cùng sợ hãi, lại còn bị nhấn dần vào đêm của tự nhiên. Hình như NỖI KHIẾP SỢ TRONG CÕI HỒN HAI NGƯỜI CÀNG TĂNG DỮ DỘI. Lại đến lúc phải chia tay Người Khách bộ hành, dù lạ, đã trở nên thân thiết, quen thuộc.

ĐÊM TỐI ẤY ĐÁNG SỢ. NÓ ĐÁNG SỢ VÔ CÙNG.

Còn Người Khách, bằng những cách giải thích Kinh Thánh, đã khiến lòng các ông ấm áp, đã khiến hạnh phúc hồi sinh, đã khiến đức tin quay về đúng vị trí của nó trong hồn.

Các ông cần Người Khách ấy. Các ông thật sự cần điểm tựa ngay lúc này. Hai cõi hồn đang không lối thoát, đang tối thật sự, cần một sức ấm sưởi lòng. Cả hai cùng lên tiếng nài nỉ: “Xin Ngài ở lại với chúng tôi vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”.

Các ông đâu ngờ, người đi bên cạnh các ông, hâm nóng lòng các ông trên quảng đường hun hút lại chính là Chúa Giêsu, là Đấng vừa khải hoàn phục sinh, Thầy Chí thánh của các ông.

Người chính là chiếc phao cứu sinh của các ông giữa biển hoang mang, là chỗ bám víu giữa lúc không chỉ màn đêm đang dần bao vây, mà chính là nội tâm của các ông đang chìm trong đêm tối, cái đêm của nghi ngờ, của thất vọng, của sợ hãi đang chiếm giữ phần lớn cõi hồn…  

Cũng vậy, lời cầu khẩn: “Xin Ngài ở lại với chúng con…” đâu phải lời xa xưa, đâu phải lời quá khứ, đâu chỉ là lời của hai môn đệ thuộc về mấy ngàn năm trước.

NÓ LÀ LỜI HIỆN TẠI VÀ LÀ HIỆN THỰC CỦA CHÍNH CHÚNG TA, CỦA BIẾT BAO CUỘC ĐỜI XUNG QUANH CHÚNG TA.

Bởi biết bao nhiêu lần sóng gió, khổ đau, sợ hãi, bế tắc… trong đời mình, CHÚNG TA CŨNG CẦN CHÚA Ở CÙNG.

Những lúc đời ta thất bại dồn thất bại, cay đắng dồn cay đắng, thương đau đè lên thương đau, gục ngã như kéo nhau ập đến, oan khuất như cùng lúc tấn công tứ phía, chúng ta, người môn đệ của Chúa hôm nay, không thốt lên để kêu nài: LẠY CHÚA, XIN Ở LẠI VỚI CON đó sao!

Chắc bất cứ ai trong đời, nếu đã có đức tin, đều cảm nhận, chính khi lên đến tận cùng của sự đau khổ, chính khi không còn biết cách giải quyết, chúng ta chỉ còn có một lối mở cho mình mà thôi. Đó là cấp tốc chạy về phía Chúa.

Hãy giao tất cả cho Chúa. Hãy chấp nhận ngã nhào vào vòng tay của Chúa như đứa bé trong tay mẹ nó.

Có Chúa, dẫu cho ngày có tàn, ta không chới với, không mất tất cả, không lo sự dữ có sức tận diệt ta.

Có Chúa, màn đêm sẽ có ánh sáng.

Hãy thốt lên liên lỉ: Lạy Chúa, dù cho ngày có tàn, dù đêm có dày đặc, xin ở lại với chúng con!

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

Lm Giuse Trần Đình Long